Quantitative Modeling (Operations Research - OR) vs Empirical Research
Posted: 13/05/2025
Khi tìm hiểu về chương trình Tiến sĩ (PhD) trong lĩnh vực Quản trị Chuỗi Cung ứng (SCM), mọi người thường nhầm lẫn về Quantitative Modeling (Operations Research - OR) và Empirical Research. Thực tế, hai hướng này khác biệt cả bản chất (tư duy học thuật), phương pháp nghiên cứu, yêu cầu đầu vào lẫn công bố khoa học. Trong bài viết này, tôi xin phân tích lại các khái niệm và các vấn đề liên quan.
1. Quantitative Modeling / Operations Research (OR)
Bản chất
Hướng OR trong SCM không đơn thuần là phân tích dữ liệu đã có, mà tập trung vào việc xây dựng các mô hình hoàn toàn mới, chưa ai làm, chưa từng được giải quyết trước đó. Người làm PhD theo hướng này thường là người tạo ra bài toán mẫu, hơn là áp dụng các mô hình có sẵn.
Trong môi trường doanh nghiệp, việc giải quyết bài toán SCM có thể dựa vào dữ liệu và các mô hình giải sẵn. Tuy nhiên, ở cấp độ nghiên cứu Tiến sĩ, mục tiêu là tạo ra những khung mô hình toán học nguyên bản, có giá trị học thuật và ứng dụng cao. Điều này cũng có nghĩa là họ sẽ thích những người có background kĩ thuật, thống kê, hơn là những người có background kinh doanh. OR còn có tên gọi khác ở Mỹ là Supply Chain Quantitative Modelling.
Một số đặc điểm:
- Tập trung vào mô hình hóa (mathematical modeling), tối ưu hóa (optimization), lập trình tuyến tính, mô phỏng (simulation-based optimization).
- Phù hợp cho những ai muốn nghiên cứu sâu về thuật toán, lập mô hình định lượng và các công cụ hỗ trợ ra quyết định trong SCM.
Top school về OR:
- MIT, Arizona State, UT Austin, UT Dallas, Indiana University, Georgia Tech.
- Một số trường có cả OR lẫn Empirical trong cùng khoa: Michigan State, Ohio State, University of Maryland.
2. Empirical Research in SCM
Bản chất
Khác với OR, hướng nghiên cứu Empirical trong SCM tập trung vào việc khai thác dữ liệu lịch sử để kiểm định các giả thuyết và mô hình lý thuyết về quản trị chuỗi cung ứng – đặc biệt là từ góc nhìn của một hệ thống. Cái mà Supply Chain nghiên cứu không phải là vận hành của một doanh nghiệp mà là vận hành của 1 chuỗi/ hệ thống doanh nghiệp liên kết với nhau. Có thể bạn phân tích dữ liệu của một doanh nghiệp cũng được, nhưng nó phải là góc nhìn nhìn ra chuỗi, nhìn vào mối tương quan của doanh nghiệp đó với những đối tác, đối thủ cạnh tranh của họ. Dữ liệu lịch sử này thường được dùng để chứng minh một mô hình nào đó về lý thuyết chiến lược. Vì vậy với những người có background kinh doanh, hiểu về chiến lược doanh nghiệp thì vào mảng này là có lợi thế. Mảng này không nặng toán bằng OR/ Quant Modelling tuy nhiên vẫn rất nặng. Phương pháp liên quan đến toán của nó rất nhiều.
- Nếu bạn dùng dữ liệu có được từ bên thứ ba (secondary data) thì sẽ rất nặng về econometrics (phân tích mô hình kinh tế). Sử dụng các phần mềm như Stata, R, SPSS.
- Nếu bạn dùng chỉ 1 ít dữ liệu từ nhiều bên thì sẽ phải dùng đến simulation (tạo mô hình giả định). Oracle tool set. Với Simulation và bộ tool set này sẽ làm liên quan khá nhiều đến OR nhưng không phải modelling. Ra trường vẫn có thể xin vào các trường Operations Management vì đầu ra của simulations cũng là các báo mà Operations dùng nhiều.
- Nếu bạn dùng thí nghiệm kinh tế/ tâm lý. Thì cần rất nhiều đến các mô hình discrete point.
- Nếu bạn dùng survey. Hiện thực hiện survey rất khó để xuất bản, bạn có thể dùng Structural Equation Modelling để thay thế.
- Ngoài ra, bạn có thể phải dùng các phương pháp về định tính để nghiên cứu (Grounded Theory, Case Study, v.v.). Bên SC Empirical thì khá nặng về quan hệ doanh nghiệp để lấy dữ liệu, nên nếu bạn có sẵn một vài bộ dữ liệu khi chạy theo mảng này thì khá là tốt tuy nhiên cũng không phải là bắt buộc vì thực ra các trường top về SCM đều có quan hệ doanh nghiệp khá sâu, đủ để bạn lấy dữ liệu nếu bạn chịu khó.
Top school mạnh về Empirical: University of Tennessee Knoxville, University of Arkansas, Iowa State, Auburn, Michigan State, Ohio State.
Hiện tại Mỹ vẫn là điểm đến của Supply Chain. Pháp/Đức thì vẫn theo hệ châu Âu, nếu học vẫn sẽ phải có 1 ít nghiên cứu khoa học trước khi muốn xin vào. Họ cũng sẽ có ít lớp (courses) để bổ sung phương pháp nghiên cứu. Mỹ thì không cần người học phải biết phương pháp nghiên cứu trước vì vào họ sẽ có 2 đến 3 năm rưỡi coursework để sinh viên có thể chọn phương pháp nghiên cứu mà họ cảm thấy phù hợp với mình nhất. Các tools bao gồm: Grounded Theory, Econometrics, Geographic Info System Modelling, Behavioral Experiment with SEM, Text and data mining.
3. Công bố nghiên cứu (publication)
Ngoài các tạp chí top như Journal of Operations Management (JOM), Production and Operations Management (POMS), Decision Sciences Journal (DSJ), thì mỗi hướng có hệ sinh thái tạp chí riêng.
- Hướng OR công bố ở các tạp chí như: INFORMS, MSOM.
- Hướng Empirical công bố ở các tạp chí: JSCM, JBL, IJPDLM, IJLM.
4. Cạnh tranh
Trường Mỹ mà có cả OR và Empirical trong cùng một khoa và mạnh thì có Michigan State, Ohio State, Uni of Maryland. Còn nếu bạn vẫn muốn theo OR sâu thì có: MIT, Arizona State, UT Austin, UT Dallas, Indiana. Nếu bạn muốn theo Empirical thì có: University of Tennessee Knoxville, Iowa State, Auburn, Uni of Arkansas.
Hiện tại cạnh tranh vào các trường Mỹ đều rất cao (1 chọi 30 hồ sơ tương đối mạnh). Mà nếu không có hồ sơ nào qualify các thầy còn không chịu tuyển cơ. Vậy nên nếu apply thì hồ sơ phải thật sáng chói. OR thì thi GRE hơn, Empirical thì lấy cả GRE cả GMAT.